Subaru WRX là một trong những dòng xe thể thao tồn tại lâu nhất từ những năm 90 và là dấu ấn đặc biệt trong lịch sử phát triển của hãng xe Nhật Bản. Trải qua nhiều cải tiến lớn qua hàng chục năm, thế hệ hiện tại đã thay đổi rất nhiều so với thế hệ đầu tiên mang tên WRX.
"Tên lửa nhỏ" của thập niên 90
WRX là viết tắt của World Rally Experimental và được sử dụng để biểu thị những chiếc xe đua rally của Subaru, mở đường cho sự đầu tư của thương hiệu vào thế giới đua xe thể thao. Phiên bản khởi đầu cho dòng xe WRX xuất hiện vào năm 1992 dưới tên gọi nội bộ GC với vai trò là nền móng cho những chiếc xe đua rally của Subaru và là phiên bản hiệu suất cao của Impreza tiêu chuẩn. So với mẫu xe thông thường, WRX thế hệ đầu tiên đặc trưng với trọng lượng nhẹ khi lược bỏ hầu hết các trang bị như hệ thống điều hòa không khí và cửa sổ chỉnh điện. Xe trang bị động cơ tăng áp EJ20 2.0L 4 xi-lanh phẳng đi kèm hộp số sàn 5 cấp và bộ vi sai chống trượt, cho công suất 237 mã lực và mô-men xoắn 304 Nm.
Cùng với WRX, Subaru cũng giới thiệu biến thể STI. Đây là mẫu xe cao cấp được định vị là sản phẩm có sức mạnh ấn tượng hơn trong những năm đầu của thế hệ đầu tiên. So với WRX, WRX STI có các bộ phận bên trong động cơ được cải tiến và một số bộ phận hiệu suất như phanh lớn hơn và ống xả lưu lượng cao. Nhiều biến thể STI khác nhau lần lượt ra đời trước thập niên 2000 gồm WRX STI Type R, WRX STI Type RA, WRX STI S201 và 22B STI. 22B STI là phiên bản mạnh mẽ nhất với động cơ lớn 2.2L cùng các thành phần hệ thống treo nâng cấp, mang lại hiệu suất tốt hơn và là phiên bản giới hạn khi chỉ 424 chiếc được sản xuất. Quá trình sản xuất WRX và WRX STI thế hệ đầu tiên kéo dài từ năm 1992-2000, sau đó là sự xuất hiện của thế hệ thứ hai, được gọi một cách trìu mến là Bugeye.
Thế hệ thứ haiGiống như WRX thế hệ đầu tiên, thế hệ thứ hai cũng được phát triển dựa trên khung gầm Impreza và là mẫu xe đầu tiên mang nhãn WRX tại thị trường Mỹ. Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất và cũng là lý do nó được gọi Bugeye, chính là đèn pha bo tròn hình mắt bọ. Mặc dù gây ra khá nhiều tranh cãi khi xuất hiện, nhưng nó đã trở thành một mẫu xe kinh điển. Thế hệ này vẫn giữ nguyên động cơ tăng áp EJ20 2.0L 4 xi-lanh và có công suất thấp hơn thế hệ đầu tiên. Tuy nhiên, đã có một số tinh chỉnh đối với thiết kế động cơ, đặc biệt là đối với mẫu STI ra mắt vào năm 2004. Bugeye là mẫu xe đầu tiên của thế hệ thứ hai. Sau Bugeye là Blobeye và tiếp đến là Hawkeye. Mỗi phiên bản của thế hệ thứ hai đều được phân biệt và có biệt danh riêng dựa trên thiết kế đèn pha. Thế hệ thứ hai được sản xuất từ năm 2000-2007 và nhường chỗ cho thế hệ GE.
Thế hệ thứ baThế hệ thứ ba có mã khung gầm GE và GH. Nó đánh dấu cột mốc thay đổi lớn đối với dòng WRX, vì mẫu Impreza của thế hệ này đã lột xác hoàn toàn so với thế hệ thứ nhất và thứ hai. Quá trình sản xuất của thế hệ này kéo dài từ năm 2007-2014, cùng một bản nâng cấp lớn diễn ra vào năm 2012. Hãng xe Nhật đã mạnh dạn thay đổi khung gầm cho WRX, khi chuyển từ khung gầm thân rộng chỉ có ở cấu hình hatchback sang khung gầm dạng rời với sự ra đời của phiên bản saloon bên cạnh bản hatchback. Mặc dù kiểu dáng khác biệt đáng kể so với các thế hệ tiền nhiệm, cái tên Impreza khi ấy vẫn được giữ nguyên.
Loại bỏ tên Impreza
Xét
theo thế hệ, đây là thế hệ thứ tư và được thiết kế với mã khung gầm VA.
Vào thời điểm này, Subaru quyết định bỏ đi tên Impreza, mở ra một
chương mới cho WRX. Mặc dù thay đổi tên gọi và đã được tinh chỉnh nhưng
WRX thế hệ thứ tư vẫn nằm trên khung gầm Impreza. Cùng với động cơ 2.5L
EJ257, Subaru cũng giới thiệu dòng động cơ FA mới cho WRX thế hệ này, cụ
thể là FA20F. Dòng FA có kiến trúc và thiết kế khác so với dòng EJ và
được sử dụng ở biến thể WRX thấp hơn, công suất 268 mã lực và 350 Nm
cho phiên bản thị trường Mỹ, trong khi phiên bản ở thị trường Nhật có
công suất cao hơn một chút.
Giống như các thế hệ trước, WRX STI là
mẫu xe đầu bảng với công suất làm nóng đường đua: 305 mã lực và 394 Nm
phân phối lực đến cả bốn bánh. Vào năm 2017, bản WRX ở thị trường Bắc Mỹ
đã có một số cải tiến và thay đổi nhằm khắc phục một số vấn đề gặp phải
trong lần sản xuất đầu tiên của dòng VA từ năm 2015. Subaru đã tinh
chỉnh cho hệ thống treo, nâng cấp các thành phần nội thất và mang đến
một cabin yên tĩnh hơn cho mẫu xe này. Thay đổi về kiểu dáng cũng được
thực hiện bên cạnh những chuyển đổi lớn trong khả năng xử lý trên đường
và khả năng vận hành của WRX. Cũng vào khoảng thời gian này, WRX bắt đầu
chuyển mình khỏi một chiếc xe hiệu suất đơn thuần và bắt đầu phát triển
thành một chiếc xe toàn diện hơn. Năm 2018, Subaru đã giới thiệu màn
hình hiển thị đa chức năng mới cho người lái cùng với hệ thống ghế chỉnh
điện mới. Một năm sau, hãng tiếp tục ra mắt hệ thống thông tin giải
trí Starlink cùng nhiều tùy chọn hơn cho nội thất như hệ thống loa giải trí
Harman Kardon và hộp số Lineartronic CVT tiêu chuẩn.
Đây là điểm
giữa trong quá trình phát triển của WRX khi vẫn giữ được sức mạnh và
trải nghiệm lái của một chiếc xe hiệu suất cao ở các thế hệ trước nhưng
lại được trang bị rất nhiều công nghệ.
Không còn là một chiếc xe đua "hung hăng"
Thế
hệ VB, ra mắt vào năm 2021, loại bỏ một số đặc điểm có ở thế hệ trước.
Thế hệ này sử dụng Subaru Global Platform, một nền tảng khung gầm liền
khối dạng mô-đun đã được sử dụng trong Impreza tiêu chuẩn từ năm 2016
nhưng lại là công nghệ mới đối với WRX. Subaru cũng quyết định không sản
xuất lại bản STI và cũng không cung cấp cấu hình hatchback nữa, mà chỉ
có biến thể WRX sedan. Bên cạnh đó, dòng động cơ EJ trang bị trong WRX
qua bốn thế hệ hiện đã dừng sử dụng và thay thế bằng động cơ FA. Cụ thể
là FA24F, động cơ xăng 4 xi-lanh phẳng tăng áp 2.4L cho công suất 271 mã
lực và 350 Nm. Dù được trang bị hộp số tự động CVT Subaru Performance
Transmission mới hay hộp số sàn 6 cấp, WRX thế hệ này đều có vi sai
trước và sau với khả năng phân bổ mô-men xoắn 50-50 cho trục trước và
trục sau. Phiên bản sử dụng hộp số CVT đi cùng bánh răng trung tâm hành
tinh, trong khi các mẫu xe số sàn sử dụng bộ vi sai trung tâm nhớt.
Không chỉ các thành phần truyền động
khiến thế hệ VB khác biệt so với thế hệ tiền nhiệm mà điều này còn thể
hiện ở cả nội thất của nó. Thế hệ VB vẫn giữ nguyên hệ thống thông tin
giải trí Starlink, nhưng toàn bộ cabin đã có sự chuyển đổi và nâng cấp
đáng kể. So với các thế hệ trước, thế hệ WRX này sở hữu nội thất sang
trọng hơn, nổi bật là hệ thống màn hình hiển thị kỹ thuật số cho người
lái, kết hợp màn hình thông tin giải trí lớn cùng vật liệu sử dụng cao
cấp hơn. Chiếc xe cũng được tích hợp thêm nhiều tính năng hỗ trợ người
lái vô cùng hữu dụng. Đây là phiên bản tiên tiến nhất của WRX với những
cải tiến vượt bậc và đột phá trong công nghệ, một phiên bản không còn dữ
dội như mẫu xe khởi đầu cho cái tên WRX vào năm 1992 mà hài hòa và hoàn
thiện hơn.
WRX không còn giống như mẫu xe đầu tiên nữa nhưng vẫn
giữ được tinh thần của di sản đua xe mà mẫu xe này rất nổi tiếng. Nó
không còn là chiến binh đường trường dẫn động bốn bánh của các tay đua
trẻ nữa, mà giờ đây là một chiếc xe thể thao có hiệu suất cuốn hút và
khỏe khoắn, kết hợp hoàn hảo giữa hiệu năng và tính linh hoạt để trở
thành một chiếc xe toàn diện, đáp ứng tốt cho mọi người dùng.